MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT BIÊN PHÒNG VIỆT NAM 2020
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT BIÊN PHÒNG VIỆT NAM
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
BIÊN PHÒNG VIỆT NAM 2020
Luật Biên
phòng Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV,
kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 11 tháng 11 năm 2020. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 và thay thế Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng số 02/1997/PL-UBTVQH9.
I. SỰ CẦN THIẾT
BAN HÀNH LUẬT BIÊN PHÒNG VIỆT NAM[1]
Việc ban hành Luật Biên phòng Việt Nam là cần thiết,
xuất phát từ những lý do như sau:
Thứ nhất, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước có nhiều
chủ trương, quan điểm, tư duy mới về
bảo vệ Tổ quốc; xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia nhưng chưa được thể
chế hóa thành pháp luật như:“Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”,“Chiến lược phát triển bền vững
kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045”, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”; trong đó, xác định nhiệm vụ biên phòng
là “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia,…;
bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa, pháp luật, tính uy nghiêm và biểu tượng quốc
gia tại biên giới, cửa khẩu; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp
tác; bảo vệ, phòng thủ vững chắc biên giới quốc gia; góp phần phát triển kinh tế
- xã hội gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực
biên giới và cả nước”; đồng thời xác định “Xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới
quốc gia toàn dân rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân
làm nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là chuyên trách”;
Chiến lược chỉ rõ “Sớm ban hành Luật Biên phòng Việt Nam”.
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của biên giới
quốc gia, đây là vấn đề chiến lược, lâu dài
của Đảng, Nhà nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
và yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Bộ đội Biên phòng đáp ứng yêu cầu làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ
biên
giới quốc gia trong tình hình mới.
Thứ ba, hiện nay,
hoạt động trên biên giới, khu vực biên giới, cửa khẩu có nhiều lực lượng thuộc
các bộ, ngành với nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại các văn bản pháp luật
chuyên ngành. Tuy nhiên, thực tế thực thi nhiệm vụ biên phòng còn những hạn chế,
bất cập; công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương, lực lượng
nòng cốt, chuyên trách với các lực lượng chức năng ở khu vực biên giới, cửa khẩu
chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Bên cạnh đó, việc đầu tư của nhà nước, địa
phương vào một số chương trình, mục tiêu quốc gia tại vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn vẫn còn dàn trải, chất lượng, hiệu quả chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng
biên giới quốc gia, khu vực biên giới vững mạnh.
Thứ tư, Pháp lệnh Bộ
đội Biên phòng ra đời cách đây hơn 20 năm trong điều kiện, bối cảnh
lịch sử hoàn toàn khác với hiện nay. Pháp lệnh chỉ điều chỉnh các vấn
đề liên quan đến Bộ đội Biên phòng, chưa
đề cập đến các chủ thể khác trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc
gia, khu vực biên giới. Một số quy định liên quan đến hạn chế quyền con người,
quyền công dân chưa phù hợp với Hiến pháp năm 2013; nhiều nhiệm vụ, quyền hạn của
Bộ đội Biên phòng không được quy định
trong Pháp lệnh mà quy định tại các luật khác và văn bản dưới luật dẫn đến tình
trạng khó theo dõi, thiếu thống nhất, gây khó khăn cho quá trình thực thi nhiệm
vụ biên phòng của Bộ đội Biên phòng. Tổng kết 20 năm thi hành Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng, các ban, bộ,
ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có biên giới đều thống nhất kiến nghị,
báo cáo Quốc hội xây dựng Luật Biên phòng Việt Nam.
Thứ năm, thực tiễn hơn 60 năm qua, Bộ đội
Biên phòng đã và đang áp dụng có hiệu quả các hình thức, biện pháp công tác
biên phòng nhưng chưa được luật hóa; việc tổ chức xây dựng nền biên phòng toàn
dân, thế trận biên phòng toàn dân trong quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới
quốc gia chưa được quy định cụ thể nên thiếu cơ sở
pháp lý để các cơ quan, lực lượng chức năng và Bộ đội Biên phòng trong thực thi
nhiệm vụ xây dựng, quản lý, bảo
vệ biên
giới quốc gia, khu vực
biên giới.
Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia là trách nhiệm của các cấp, các ngành và của cả hệ thống chính trị. Để
bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia đang đặt ra cần thiết phải có hệ thống văn bản pháp
lý đồng bộ, thống nhất. Vì vậy, việc ban hành Luật Biên phòng Việt Nam có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, cần thiết; đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý, bảo vệ
biên
giới quốc gia, khu vực biên giới trong
tình hình mới.
II. MỤC ĐÍCH, QUAN
ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
1. Mục đích
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, cơ
quan, tổ chức, cá nhân, xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới toàn dân rộng khắp,
nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, một số thành phần tiến thẳng lên hiện đại; xây dựng nền biên phòng toàn
dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh, ổn định lâu dài trong nền quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở khu vực biên giới vững chắc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ
biên giới quốc gia trong tình hình mới.
- Phòng
ngừa, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm biên giới
quốc gia; bảo vệ Đảng, chính quyền, nhân dân và các mục tiêu chính trị, kinh tế,
quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới; phòng, chống có hiệu quả tội phạm, giữ
vững ổn định an ninh, trật tự ở khu vực biên giới.
- Mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
2. Quan điểm chỉ đạo
- Thể chế đầy đủ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; xây dựng lực
lượng Bộ đội Biên phòng đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp
luật và các điều ước quốc tế về biên giới quốc gia mà Việt Nam là thành viên.
- Kế thừa những quy định của Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng còn giá trị, khắc phục những vướng mắc, bất cập; rà soát, đối chiếu với
các quy định pháp luật hiện hành để tránh mâu thuẫn, chồng chéo; đồng thời phát triển, bổ sung các quy định mới nhằm
đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới
quốc gia.
- Bám
sát các chính sách đã được đánh giá tác động của dự án Luật. Nghiên cứu, tiếp thu các quy định pháp luật về công tác biên
phòng, tổ chức lực lượng bảo vệ biên giới của một số nước láng giềng, khu vực để
vận dụng phù hợp với điều kiện của nước ta.
III. BỐ CỤC, NỘI DUNG CƠ
BẢN CỦA LUẬT BIÊN PHÒNG VIỆT NAM
1. Bố cục
Luật Biên phòng Việt Nam được Quốc hội khóa XIV thông qua
tại Kỳ họp thứ 10 ngày 11/11/2020 quy định về chính sách, nguyên tắc, nhiệm vụ,
hoạt động, lực lượng, bảo đảm và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân về
biên phòng; gồm 06 chương 36 điều, cụ thể:
-
Chương I. Những quy định chung, gồm 08 điều (từ Điều 1 đến Điều 8);
- Chương II. Hoạt động
cơ bản về biên phòng, gồm 04 điều (từ Điều 9 đến Điều 12);
- Chương III. Lực lượng BĐBP, gồm 12 điều (từ Điều 13 đến Điều 24);
- Chương IV. Bảo đảm
biên phòng và chế độ, chính sách đối với lực lượng thực thi nhiệm vụ biên
phòng, gồm 03 điều (từ Điều 25 đến Điều 27);
- Chương V. Trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức về biên phòng, gồm 07 điều (từ Điều 28 đến Điều 34);
- Chương VI. Điều khoản
thi hành, gồm 02 điều (Điều 35 và Điều 36).
2. Nội dung cơ bản
Luật Biên phòng Việt Nam quy định
đầy đủ, toàn diện, cụ thể về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia của
Tổ quốc; đặc biệt là quy định rõ nhiệm vụ của các cấp, các ngành, lực lượng vũ
trang và của cả hệ thống chính trị trong xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia,
đáp ứng hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới;
xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, cụ thể:
2.1. Những quy định chung (Chương I)
Chương này gồm 08 điều, từ
Điều 1 đến Điều 8; quy định về phạm vi điều chỉnh, các từ ngữ cần giải thích và
quy định về chính sách của Nhà nước về biên phòng, nguyên tắc thực thi nhiệm vụ
biên phòng, nhiệm vụ biên phòng, lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng, trách
nhiệm và chế độ, chính sách của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia, phối hợp, cộng
tác, giúp đỡ lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng và các hành vi bị nghiêm
cấm về biên phòng.
2.1.1. Phạm vi điều chỉnh (Điều 1)
Khác với Pháp lệnh BĐBP, phạm vi điều chỉnh
của Luật Biên phòng Việt Nam mang tính toàn diện hơn nhằm huy động sức mạnh của
cả hệ thống chính trị và toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng, quản lý,
bảo vệ biên
giới quốc gia, khu vực
biên giới, cụ thể: “Luật này quy định chính sách, nguyên tắc,
nhiệm vụ, hoạt
động, lực lượng, bảo đảm và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân về biên
phòng”.
2.1.2. Giải thích từ ngữ (Điều 2)
Luật Biên phòng Việt Nam giải thích đối với một số
từ ngữ mà hiện nay chưa được quy định tại các luật khác nhằm thống nhất nhận thức
đối với các quy định của Luật, cụ thể:
Biên phòng là tổng thể các hoạt động, biện pháp bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và
bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới bằng sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc (khoản 1 Điều 2).
Nền biên phòng toàn dân là sức mạnh biên phòng của đất nước, được xây
dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần và các nguồn lực với phương châm toàn
dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường (khoản 2 Điều 2).
Thế trận biên phòng toàn dân là việc tổ chức, triển khai, bố trí lực
lượng và các nguồn lực cần thiết để thực hiện nhiệm vụ biên phòng phù hợp với
Chiến lược bảo vệ biên
giới quốc gia (khoản 3 Điều 2).
Vành đai biên giới là phần lãnh thổ từ đường biên giới quốc gia trên đất liền trở vào từ 100 m đến 1.000 m do
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi có biên giới quốc gia quyết định, trường hợp đặc biệt do Thủ tướng
Chính phủ quyết định (khoản 4 Điều
2).
2.1.3. Về
chính sách của Nhà nước về biên phòng
(Điều 3)
Trên cơ sở rà soát các chính sách đã được quy định
tại Luật Biên giới quốc gia để không trùng lặp; đồng thời, bổ
sung chính sách của Nhà nước đối với lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng,
BĐBP, các lực lượng khác ở địa phương, nhất là các xã biên giới nhưng vẫn đảm bảo cụ thể hóa các Nghị quyết
của Đảng, kế thừa và pháp điển hóa các chính sách về biên phòng đã được quy định
trong các văn bản pháp luật hiện hành. Luật Biên phòng Việt Nam quy định
07 chính sách của nhà nước về biên phòng, gồm:
- Thực hiện chính sách độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển,
ổn định lâu
dài với các nước có chung đường biên giới; mở rộng hợp tác quốc tế, đối ngoại
quốc phòng, an ninh, đối ngoại biên phòng và đối ngoại nhân dân.
- Giải quyết các vấn đề biên
giới quốc gia
bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích chính đáng của nhau, phù hợp với Hiến pháp,
pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
- Sử dụng các biện
pháp chính đáng, thích hợp để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc.
- Thực hiện chính
sách đại đoàn kết toàn dân tộc; xây
dựng lực lượng bảo vệ biên giới quốc gia toàn dân vững mạnh, rộng khắp, Nhân
dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
- Củng cố, tăng cường quốc phòng, an
ninh; ưu tiên nguồn lực đầu tư, hiện đại hóa các công trình biên giới,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
khoa học, công nghệ, đối ngoại ở khu vực biên giới.
- Huy động các nguồn lực của cơ quan, tổ chức và cá
nhân trong thực thi nhiệm vụ biên phòng.
- Khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ
chức, cá nhân ủng hộ vật chất, tài chính, tinh thần cho thực hiện nhiệm vụ biên
phòng trên nguyên tắc tự nguyện, không trái với pháp luật Việt Nam và phù hợp
với pháp luật quốc tế.
2.1.4. Nguyên tắc thực thi nhiệm vụ biên phòng (Điều
4)
Luật Biên phòng Việt Nam quy định
04 nguyên tắc thực thi nhiệm vụ biên phòng, bao gồm:
- Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biên
giới quốc gia của các nước.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, hệ thống chính trị, dựa vào
Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân.
- Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội và
kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh; kết hợp thực thi nhiệm
vụ biên phòng với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, khoa học, công
nghệ, đối ngoại ở khu vực biên giới.
2.1.5. Nhiệm vụ biên phòng (Điều 5)
Quá
trình soạn thảo Luật Biên phòng Việt Nam, còn có ý kiến đề nghị cân nhắc tên Điều
vì cho rằng chưa phù hợp với nội dung của điều, trùng với nhiệm vụ của BĐBP; có
ý kiến đề nghị sửa lại tên điều là “Nhiệm vụ công tác biên phòng”. Tuy nhiên,
nhằm xác định rõ nhiệm vụ biên phòng là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị
và của cơ quan, tổ chức, cá nhân về biên phòng. Nếu sửa lại tên điều là “Nhiệm
vụ công tác biên phòng” sẽ không đáp ứng được yêu cầu này, vì “công tác biên
phòng” chỉ thuộc phạm vi của lực lượng BĐBP. Trên cơ sở ý kiến của các Đại biểu
Quốc hội và để thể chế hóa đầy đủ quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết số
33-NQ/TW; tránh chồng chéo, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ
chức có liên quan, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, có tính khả
thi, Luật Biên phòng Việt Nam đã quy định 07 nhiệm vụ biên phòng như hiện nay. 07
nhiệm vụ này được quy định cụ thể theo từng nhóm nội dung về xây dựng biên giới quốc gia, khu vực
biên giới; quản lý biên giới quốc gia, khu vực biên giới và bảo vệ biên giới quốc
gia, khu vực biên giới đảm bảo phù hợp, thống nhất với khái niệm “Biên phòng”,
cụ thể:
- Xây dựng và thực hiện
chiến lược, kế hoạch bảo vệ biên giới quốc gia.
- Quản lý, bảo vệ chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia; xây dựng, quản lý, bảo vệ hệ
thống mốc quốc giới, vật đánh dấu, dấu hiệu đường biên giới, công trình biên
giới, cửa khẩu, công trình khác ở khu vực biên giới.
- Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc, hòa bình, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, kinh tế, văn hóa, xã hội, tài
nguyên, môi trường; bảo đảm việc thi hành pháp luật ở khu vực biên giới, cửa
khẩu.
- Phát triển kinh tế - xã hội
kết hợp với tăng cường và củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên
giới.
- Xây dựng nền biên phòng toàn
dân, thế trận biên phòng toàn dân trong nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân; xây
dựng khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện biên giới, phòng thủ dân sự; phòng,
chống, ứng phó, khắc phục sự cố, thiên tai, thảm họa, biến đổi khí hậu, dịch
bệnh; tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn ở khu vực biên giới.
- Hợp tác quốc tế về biên phòng,
đối ngoại biên phòng, đối ngoại nhân dân, xây dựng biên giới hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển, ổn định lâu dài.
- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu
chống chiến tranh xâm lược, xung đột vũ trang.
2.1.6. Lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng (Điều 6)
Trên cơ sở nhiệm vụ biên phòng,
Luật Biên phòng Việt Nam xác định lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng gồm 2
nhóm lực lượng là cơ quan, tổ chức, đơn vị lực
lượng vũ trang nhân dân ở khu vực biên giới, cửa khẩu và cơ
quan lãnh đạo, chỉ huy, quản lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ
trang nhân dân
nêu trên.
2.1.7.
Trách nhiệm và chế độ, chính sách của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ lực lượng thực thi nhiệm
vụ biên phòng (Điều 7)
Đây là nội dung mới so với
Pháp lệnh BĐBP, Luật Biên phòng Việt Nam quy định cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm tham gia, phối hợp, cộng
tác, giúp đỡ lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng thực hiện nhiệm vụ. Riêng công dân ở khu vực biên giới có trách nhiệm
tham gia xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân và các
phong trào bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật
tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu. Đồng thời, Luật
cũng quy định cụ thể cơ quan, tổ chức, công dân tham gia, phối hợp, cộng
tác, giúp đỡ lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng có thành tích thì được
khen thưởng; bị thiệt hại về tài sản thì được đền bù; bị tổn hại về danh dự,
nhân phẩm thì được khôi phục; người bị thương tích, tổn hại sức khỏe, tính mạng
thì bản thân hoặc gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp
luật.
2.1.8. Các hành vi bị
nghiêm cấm (Điều 8)
Luật Biên phòng Việt Nam quy định 07 nhóm hành vi
bị nghiêm cấm, gồm:
- Xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ quốc gia; phá hoại, gây mất ổn định an
ninh, trật tự, an
toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu.
- Sử dụng hoặc cho
sử dụng khu vực biên giới của Việt Nam để chống phá, can thiệp vào nước khác;
đe dọa sử dụng hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ biên giới.
- Giả danh cơ quan,
tổ chức, người thực thi nhiệm vụ biên phòng; chống lại, cản trở, trả thù, đe
dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thực thi
nhiệm vụ biên phòng.
- Mua chuộc, hối
lộ, dụ dỗ, lôi kéo hoặc ép buộc người thực thi nhiệm vụ biên phòng làm trái quy định của pháp luật.
- Lợi dụng, lạm
dụng việc thực thi nhiệm vụ biên phòng để vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân.
- Phân biệt đối xử về giới, chia rẽ, kỳ thị dân tộc, chủng tộc, quốc
tịch, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa trong thực thi nhiệm vụ biên
phòng.
-
Sản xuất, sử dụng, mua bán, trao đổi, vận chuyển, phát tán thông tin, hình ảnh
sai lệch về chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia.
2.2. Hoạt động cơ bản về biên phòng (Chương II)
Gồm 03 điều, từ Điều 9 đến
Điều 12, quy định về nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân;
phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng; hạn chế hoặc tạm dừng hoạt động ở vành đai biên giới, khu
vực biên giới, qua lại biên giới, cửa
khẩu, lối mở biên giới đất liền và hợp tác quốc tế về biên phòng, cụ thể:
2.2.1. Về nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân (Điều 9)
Nhằm làm rõ hơn sự kết hợp giữa nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân với thế trận quốc phòng
toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân; thống nhất với khoản 1 Điều 28 Luật Biên giới quốc gia([2]) và để thể chế hóa quan điểm của Đảng tại
Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng nền biên
phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ biên
giới quốc gia. Luật Biên phòng Việt Nam xác định cụ thể 05 nội dung cơ bản xây dựng nền biên phòng
toàn dân và 04 nội dung xây dựng thế trận
biên phòng toàn dân (Điều 9), cụ thể:
- 05 nội dung cơ bản xây
dựng nền biên phòng toàn dân, gồm:
+
Xây dựng, tổ chức thực hiện Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực phòng
thủ, phòng thủ dân sự và kế hoạch phòng thủ ở khu vực biên giới;
+
Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở khu vực biên giới;
+
Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, quân sự, an ninh, đối ngoại, kinh tế,
văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ biên phòng;
+ Xây dựng lực lượng bảo vệ
biên giới quốc gia toàn dân vững mạnh, rộng khắp;
xây dựng BĐBP cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số thành
phần tiến thẳng lên hiện đại;
+ Xây
dựng phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc
gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa
khẩu.
-
04 nội dung cơ bản xây dựng thế trận biên phòng toàn dân, gồm:
+
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, bố trí các cụm dân cư đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở khu vực biên giới;
+
Xây dựng công trình phòng thủ liên hoàn, vững chắc; tổ chức, bố trí lực lượng
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ biên phòng;
+ Phối
hợp giữa các cơ quan, tổ chức, lực lượng phát huy sức mạnh tổng hợp, kịp thời xử
lý các tình huống ở biên giới, khu vực biên giới;
+
Tổ chức Nhân dân tham gia thực hiện nhiệm vụ biên phòng.
2.2.2. Về phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng (Điều
10)
Nhằm
đảm bảo nguyên tắc một việc do nhiều chủ thể thực hiện nhưng chỉ một chủ thể chủ
trì, phát huy được sức mạnh tổng hợp và thuận lợi trong thực thi nhiệm vụ biên
phòng. Luật Biên phòng Việt Nam quy định về phối hợp thực thi nhiệm vụ biên
phòng theo nhóm nhiệm vụ; đối với nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới do Bộ
Quốc phòng chủ trì; đối với nhiệm vụ xây dựng biên giới quốc gia, khu vực biên giới do Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, chính quyền địa phương chủ trì trên cơ sở chức năng quản lý nhà nước theo
từng lĩnh vực do pháp luật quy định.
Về phạm vi phối hợp thực thi nhiệm
vụ biên phòng gồm: Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính
quyền địa phương cấp tỉnh thực hiện quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, duy trì
an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu. Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng,
chính quyền địa phương cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức có liên quan thực thi nhiệm
vụ biên phòng. Chính quyền địa phương cấp tỉnh nơi có biên giới quốc gia, trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang
Bộ và địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan thực thi nhiệm vụ biên phòng. Chính quyền địa phương cấp
huyện, cấp xã nơi có biên giới quốc gia, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, chủ trì, phối hợp với địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan thực thi
nhiệm vụ biên phòng.
Việc phối hợp thực thi nhiệm vụ
biên phòng trên cơ sở các nguyên tắc: Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, địa
bàn hoạt động của lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng theo quy định của pháp
luật; không làm cản trở hoạt động hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bảo đảm điều hành tập trung,
thống nhất theo quy định của pháp luật. Chủ động, linh hoạt, bí mật, kịp thời,
hiệu quả và gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Trên cùng một địa bàn, khi phát hiện hành
vi vi phạm pháp luật liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều cơ quan, tổ
chức, lực lượng thì cơ quan, tổ chức, lực
lượng nào phát hiện trước phải xử lý theo thẩm quyền do pháp luật quy định;
trường hợp vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình thì xử lý ban đầu, chuyển giao hồ sơ,
người, tang vật, tàu thuyền và phương tiện vi phạm pháp luật cho cơ quan, tổ
chức, lực lượng có thẩm quyền chủ trì giải quyết. Cơ quan, tổ chức, lực lượng
tiếp nhận có trách nhiệm thông báo kết quả điều tra, xử lý cho cơ quan, tổ
chức, lực lượng chuyển giao biết.
Nội dung phối hợp thực thi nhiệm vụ biên
phòng bao gồm: Trao đổi thông tin, tài liệu; đề xuất cấp có thẩm quyền xây dựng
chính sách, pháp luật về biên phòng. Tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, xử lý các
tình huống về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng,
chống tội phạm, vi phạm pháp luật; phòng, chống, ứng phó, khắc phục sự cố,
thiên tai, thảm họa, biến đổi khí hậu, dịch bệnh; tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn ở
khu vực biên giới, cửa khẩu. Xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận
biên phòng toàn dân vững mạnh ở khu vực biên giới. Xây dựng lực lượng nòng cốt,
chuyên trách. Đào tạo, tập huấn nghiệp vụ và kỹ năng chuyên môn cho lực lượng
thực thi nhiệm vụ biên phòng. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
ở khu vực biên giới. Thực hiện các hoạt động phối hợp khác có liên quan.
Ngoài ra, Luật
giao Chính phủ
quy định chi tiết việc phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa
phương trong thực thi nhiệm vụ biên phòng. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định
chi tiết việc phối hợp giữa Bộ đội Biên phòng và các lực lượng khác thuộc Bộ
Quốc phòng trong thực thi nhiệm vụ biên phòng.
2.2.3. Về hạn chế hoặc tạm dừng hoạt
động ở vành đai biên giới, khu vực biên giới, qua lại biên giới tại cửa khẩu,
lối mở biên giới đất liền (Điều 11)
Để bảo
đảm phù hợp với Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định những nội dung có liên quan
đến quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật
và luật hóa các văn
bản dưới luật hiện hành; Luật Biên phòng Việt Nam quy định cụ thể các trường hợp được hạn chế hoặc tạm dừng, các hoạt động bị hạn chế hoặc tạm dừng, thẩm quyền quyết định hạn chế
hoặc tạm dừng các hoạt động trong vành đai biên giới, khu vực biên giới, qua lại biên giới tại cửa khẩu, lối mở biên giới đất liền và trình
tự, thủ tục quyết định hạn chế hoặc tạm dừng trong các trường hợp.
Các
trường hợp được hạn chế hoặc tạm dừng bao gồm: xảy ra tranh chấp về biên giới,
lãnh thổ; xung đột vũ trang; địch xâm nhập; hoạt động khác đe dọa đến chủ
quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia. Xảy ra bạo loạn, khủng bố, bắt cóc con
tin, truy bắt tội phạm có vũ khí. Ngăn chặn thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt,
dịch bệnh lan truyền qua biên giới. Khi có đề nghị hoặc thông báo của Chính
phủ, chính quyền địa phương hoặc lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới của nước
có chung đường biên giới về việc hạn chế hoặc tạm dừng qua lại biên giới.
Các
hoạt động bị hạn chế hoặc tạm dừng bao gồm: trong vành đai biên giới: ra,
vào vành đai biên giới, khu vực có dịch bệnh, hỏa hoạn, lũ lụt, nguy cơ thiên
tai xảy ra; họp chợ, tổ chức lễ hội; sản xuất, kinh doanh, xây dựng công trình,
thăm dò, khai thác tài nguyên. Trong khu vực biên giới: ra, vào khu vực
biên giới, khu vực có dịch bệnh, hỏa hoạn, lũ lụt, nguy cơ thiên tai xảy ra;
họp chợ, tổ chức lễ hội; sản xuất, kinh doanh, xây dựng công trình, thăm dò,
khai thác tài nguyên. Qua lại biên giới tại cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính hoặc cửa
khẩu song phương, cửa khẩu phụ, lối mở.
Việc quyết định hạn chế hoặc tạm dừng hoạt
động trong vành đai biên giới, khu vực biên giới được quy định như sau: Đồn trưởng Đồn Biên phòng quyết định hạn chế hoặc tạm dừng
hoạt động trong vành đai biên giới thuộc phạm vi quản lý không quá 12 giờ và
báo cáo ngay Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh; thông báo
cho cơ quan ngoại vụ địa phương, chính quyền địa phương cấp huyện, cấp xã
sở tại. Chỉ huy
trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh quyết định hạn chế hoặc tạm dừng
hoạt động trong khu vực biên giới thuộc phạm vi quản lý không quá 24 giờ và báo
cáo ngay Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; thông báo cho Bộ
Ngoại giao, Công an cấp tỉnh. Trường hợp hết thời hạn 24 giờ, nếu xét
thấy cần phải tiếp tục hạn chế hoặc tạm dừng các hoạt động trong khu vực biên
giới, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh có trách nhiệm đề
nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tiếp tục hạn chế hoặc tạm dừng nhưng
không quá 24 giờ và thông báo cho Bộ Ngoại giao, Công an cấp tỉnh. Quyết định hạn chế hoặc tạm
dừng quy định tại điểm a và điểm b khoản này phải thông báo cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân ở khu vực biên giới; thông báo cho lực lượng quản lý, bảo vệ biên
giới của nước có chung đường biên giới.
Việc quyết định hạn chế hoặc tạm dừng qua
lại biên giới tại cửa khẩu, lối mở: đồn trưởng Đồn Biên phòng quyết định hạn
chế hoặc tạm dừng qua lại cửa khẩu phụ, lối mở không quá 06 giờ và báo cáo ngay
Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh; thông báo cho chính quyền
địa phương cấp huyện, cấp xã sở tại, cơ quan, tổ chức, cá nhân ở khu vực biên giới
và lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới của nước có chung đường biên giới. Chỉ
huy trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh quyết định hạn chế hoặc tạm
dừng qua lại cửa khẩu phụ, lối mở không quá 12 giờ và báo cáo ngay Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; thông báo cho lực lượng quản lý, bảo
vệ biên giới của nước có chung đường biên giới. Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Bộ
đội Biên phòng cấp tỉnh quyết định hạn chế hoặc tạm dừng qua lại cửa khẩu chính
hoặc cửa khẩu song phương không quá 06 giờ và báo cáo ngay Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; thông báo cho chính quyền địa phương cấp
huyện, cấp xã sở tại, cơ quan, tổ chức ở khu vực biên giới và lực lượng quản
lý, bảo vệ biên giới của nước có chung đường biên giới. Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hạn chế hoặc tạm dừng qua lại cửa khẩu chính
hoặc cửa khẩu song phương không quá 24 giờ theo đề nghị của Chỉ huy trưởng Bộ
chỉ huy Bộ
đội Biên phòng cấp tỉnh và báo cáo ngay Thủ tướng Chính phủ; thông báo
cho chính
quyền địa phương của nước có chung đường biên giới. Thủ tướng Chính phủ
quyết định hạn chế hoặc tạm dừng qua lại cửa khẩu quốc tế theo đề nghị của Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao. Bộ Ngoại giao có trách nhiệm thông báo
cho cơ quan ngoại giao của nước có chung đường biên giới.
Trước khi hết thời hạn hạn chế hoặc tạm dừng qua lại biên
giới, nếu xét thấy cần tiếp tục hạn chế hoặc tạm dừng thì việc quyết định gia hạn thời
gian hạn chế hoặc tạm dừng được thực hiện như sau: đồn trưởng Đồn Biên phòng
quyết định gia hạn thời gian hạn chế hoặc tạm dừng qua lại cửa khẩu phụ, lối mở
không quá 06 giờ. Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng cấp tỉnh
quyết định gia hạn thời gian hạn chế hoặc tạm dừng qua lại cửa khẩu chính hoặc
cửa khẩu song phương không quá 06 giờ, tại cửa khẩu phụ, lối mở không quá 12
giờ. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định gia hạn thời gian hạn chế
hoặc tạm dừng qua lại cửa khẩu chính hoặc cửa khẩu song phương không quá 24
giờ. Việc gia hạn
phải được báo cáo ngay và được sự đồng ý của cấp trên trực tiếp trước khi ra
quyết định; thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân ở khu vực biên giới; thông
báo cho cơ quan ngoại vụ địa phương, Bộ Ngoại giao theo quy định. Trường hợp chấm dứt việc hạn
chế hoặc tạm dừng trước thời hạn thì người có thẩm quyền thông báo ngay cho cơ
quan có liên quan và trên phương tiện thông tin đại chúng; thông báo cho lực
lượng quản lý, bảo vệ biên giới, chính quyền địa phương của nước có chung đường
biên giới. Người có thẩm quyền quy định tại Điều này căn cứ tình hình thực tế
để ra quyết định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
2.2.4. Về hợp tác quốc tế (Điều 12)
Trên cơ
sở các nội dung mà Luật Điều ước quốc tế đã quy định và rà soát nguyên tắc hợp
tác quốc tế để tránh trùng lặp với Điều 3 Luật Biên giới quốc gia. Luật Biên
phòng Việt Nam xác định 06 nội dung và 04 hình thức hợp tác quốc tế về biên
phòng nhằm làm rõ nội dung hợp tác quốc tế trong thiết lập, phát triển quan hệ
biên giới và xây dựng, mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước có chung biên giới,
các quốc gia và tổ chức quốc tế khác trên thế giới và khu vực, phù hợp với đường
lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước hiện nay, cụ thể:
- 06 nội dung hợp tác quốc tế:
+ Thiết lập, phát triển quan hệ biên giới; xây
dựng, mở rộng quan hệ hữu nghị với chính quyền, nhân dân, lực lượng chức năng của nước
có chung đường biên giới và các quốc gia khác; phát triển quan hệ với các tổ
chức quốc tế có liên quan;
+ Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về biên
phòng; thiết lập, thực thi cơ chế hợp tác biên phòng song phương, đa phương
theo quy định của pháp luật;
+ Đàm phán, giải quyết các vấn đề, vụ việc về biên
giới, cửa khẩu; tuần tra biên giới; kiểm soát xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu
tại cửa khẩu, qua lại biên giới theo quy định của pháp luật; phòng, chống tội
phạm, vi phạm pháp luật;
+ Đấu tranh ngăn chặn mọi hành động làm phương hại đến quan hệ biên giới
giữa Việt Nam với các nước;
+ Phòng, chống, ứng phó, khắc phục sự cố, thiên tai, thảm họa, biến đổi
khí hậu, dịch bệnh; tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn;
+ Đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm về biên phòng, chuyển giao trang
bị, khoa học và công nghệ để tăng cường năng lực thực thi nhiệm vụ biên phòng.
- 04 hình thức hợp tác quốc tế:
+ Ký kết điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế;
+ Hội đàm, giao lưu hợp tác;
+ Trao đổi, chia sẻ thông tin;
+ Các
hình thức hợp tác khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2.3. Lực lượng Bộ đội Biên phòng (Chương III)
Đây là chương cơ bản quy định về
BĐBP, gồm 12 điều (từ Điều
13 đến Điều 24), quy định
về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi hoạt động của BĐBP; quyền hạn
chế hoặc tạm dừng hoạt động ở vành đai biên giới, qua lại biên giới; sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; huy động người, tàu thuyền, phương tiện, thiết
bị kỹ thuật dân sự; hình thức, biện pháp quản lý, bảo vệ biên giới
quốc gia; hệ thống tổ chức, trang bị,
ngày truyền thống, tên giao dịch quốc tế, con dấu, trang phục, màu sắc, cờ hiệu,
phù hiệu và dấu hiệu nhận biết phương tiện của BĐBP, cụ thể:
2.3.1. Về vị trí, chức năng của Bộ đội Biên phòng
(Điều 13)
Quá
trình xây dựng điều luật quy định về nội dung này, có ý kiến đề nghị cần quy định
rõ hơn về vị trí của BĐBP; cân nhắc cụm từ “là lực lượng chuyên trách làm nòng
cốt” tại khoản 1 cho phù hợp với
Điều 31 Luật Biên giới quốc gia. Có ý kiến đề nghị làm rõ chức năng tham mưu
cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành theo thẩm quyền; cân nhắc quy định BĐBP
tham mưu trực tiếp với Đảng, Nhà nước; cân nhắc chức năng “duy trì an ninh, trật
tự và thực thi pháp luật ở khu vực biên giới, cửa khẩu” và xác định rõ vai trò
chủ trì, phối hợp để tránh chồng chéo với Luật Công an nhân dân.
Tiếp thu các ý kiến nêu trên, Luật Biên phòng Việt Nam đã quy định về vị
trí, chức năng của BĐBP như hiện nay và thấy
rằng, BĐBP có chức năng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
là phù hợp vì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là người chỉ huy cao nhất trong Quân đội
nhân dân. Quy định chức năng “chủ
trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở
khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật” tại
khoản 2 là phù hợp với quan điểm của Đảng, thống nhất với khoản 2 Điều 31 Luật
Biên giới quốc gia, khoản 2 Điều 35 Luật Quốc phòng, khoản 5 Điều 16 Luật Công
an nhân dân, thể chế hóa Thông
báo số 165/TB-TW ngày 22/12/2004 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) kết luận của Bộ Chính trị về tổ chức BĐBP.
Cụ thể như sau:
“1. Bộ đội Biên phòng là lực lượng vũ trang nhân dân, thành phần của
Quân đội nhân dân Việt Nam, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc
gia, khu vực biên giới.
2. Bộ đội Biên phòng có chức năng tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất với Đảng, Nhà nước chính sách, pháp luật về biên phòng;
thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và chủ trì, phối
hợp với cơ quan, tổ chức duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực
biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.”.
2.3.2.
Nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng (Điều 14)
Bộ đội Biên phòng
có 12 nhiệm vụ quy định tại Điều 14 của Luật. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của
các Đại biểu Quốc hội, Ban Soạn thảo đã nghiên cứu, bổ sung, rà soát nhiệm vụ
của BĐBP cho đầy đủ, tránh chồng chéo với nhiệm vụ các cơ quan, tổ chức, lực
lượng khác và bảo đảm tính khả thi. Nội dung điều luật này được xây dựng trên
cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh BĐBP còn giá trị, phù hợp với thực
tiễn thực hiện nhiệm vụ của BĐBP trong thời gian qua cũng như yêu cầu, nhiệm vụ
biên phòng trong tình hình mới. Đồng thời, thể chế hóa Nghị quyết số 11/NQ-TW
ngày 08/8/1995 của Bộ Chính trị về xây dựng BĐBP trong tình hình mới và Nghị
quyết số 33-NQ/TW ngày 28/9/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên
giới quốc gia. 12 nhóm nhiệm vụ của Bộ đội
Biên phòng như sau:
- Thu thập thông tin, phân
tích, đánh giá, dự báo tình hình để thực hiện nhiệm vụ và đề xuất với Bộ Quốc
phòng, Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện chính sách, pháp luật về biên
phòng.
- Tham mưu cho Bộ Quốc phòng về
công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, duy trì an ninh, trật tự, an toàn
xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu và xây dựng lực lượng Bộ đội Biên phòng.
- Thực hiện quản lý, bảo vệ
biên giới quốc gia, hệ thống mốc quốc giới, vật đánh dấu, dấu hiệu đường biên
giới, công trình biên giới, cửa khẩu; tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật
về biên phòng.
- Duy trì an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với phương thức, thủ
đoạn hoạt động của thế lực thù địch, phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở khu vực biên
giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.
- Kiểm soát xuất nhập cảnh tại
cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý và kiểm soát qua lại biên giới theo quy định
của pháp luật.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về
biên phòng, đối ngoại biên phòng; giải quyết sự kiện biên giới, cửa khẩu theo
quy định của pháp luật.
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật, vận động Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu
chống xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lược ở khu vực biên giới.
- Tham mưu, làm nòng cốt trong
xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân ở khu vực biên
giới; tham gia xây dựng khu vực phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện biên giới, phòng
thủ dân sự.
- Tiếp nhận, sử dụng nhân lực,
phương tiện dân sự để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
- Tham gia xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở, sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng,
phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo ở khu vực
biên giới gắn với xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh.
- Tham gia phòng, chống, ứng
phó, khắc phục sự cố, thiên tai, thảm họa, biến đổi khí hậu, dịch bệnh; tìm
kiếm, cứu hộ, cứu nạn ở khu vực biên giới.
2.3.3. Quyền hạn của Bộ đội Biên phòng (Điều 15)
Nội dung Điều này
được quy định trên cơ sở rà soát quyền hạn của BĐBP ở các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành để
tránh chồng chéo với lực lượng Công an,
Hải quan. Đồng thời, quy
định rõ từng trường hợp hạn
chế hoặc tạm dừng các hoạt động ở vành đai biên giới, khu vực biên giới của Chỉ
huy trưởng Bộ Chỉ huy Biên phòng cấp tỉnh và Đồn trưởng Đồn Biên phòng; quy định rõ việc huy động người, tàu thuyền, phương tiện, thiết bị kỹ thuật dân sự cho chặt chẽ, thống nhất; bổ sung quyền nổ súng đối với tàu thuyền trên biển, sông suối biên giới vì Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và
công cụ hỗ trợ năm 2017 chưa quy định; quyền truy đuổi bắt giữ người, phương tiện vi phạm pháp luật của
BĐBP. Cụ thể:
- Bố trí, sử dụng lực lượng,
phương tiện, thiết bị kỹ thuật để thực thi nhiệm vụ; áp dụng hình thức, biện
pháp quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia theo quy định tại Điều 19 và Điều 20 của
Luật này.
- Tuần tra, kiểm tra, kiểm
soát, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, hệ thống mốc quốc giới, vật đánh dấu,
dấu hiệu đường biên giới, công trình biên giới, cửa khẩu; cấp, sửa đổi, bổ
sung, hủy bỏ thị thực và các loại giấy tờ trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia; kiểm tra, kiểm soát phương tiện khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật,
xử lý phương tiện vi phạm pháp luật ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định
của pháp luật.
- Đấu tranh, ngăn chặn,
điều tra, xử lý vi phạm pháp luật ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của
pháp luật.
- Hạn
chế hoặc tạm dừng hoạt động ở vành đai biên giới, khu vực biên giới, qua lại
biên giới tại cửa khẩu, lối mở theo quy định tại Điều 11 của Luật này.
- Sử dụng vũ khí,
vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định tại Điều 17 của Luật này.
- Huy động người,
tàu thuyền, phương tiện, thiết bị kỹ thuật dân sự theo quy định tại Điều 18 của
Luật này.
- Trực tiếp truy đuổi, bắt
giữ người, phương tiện vi phạm pháp luật từ biên giới vào nội địa; phối hợp với
các lực lượng truy tìm, bắt giữ người có hành vi vi phạm pháp luật trốn chạy
vào nội địa; truy đuổi, bắt giữ người, phương tiện vi phạm pháp luật trốn chạy
từ trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam ra ngoài phạm vi lãnh hải Việt Nam theo
quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Hợp tác, phối hợp với lực
lượng chức năng của nước có chung đường biên giới, các nước khác và tổ chức quốc
tế trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, cửa khẩu, phòng, chống tội
phạm, vi phạm pháp luật theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2.3.4. Phạm vi hoạt động của Bộ
đội Biên phòng (Điều 16)
Luật
Biên phòng Việt Nam xác định cụ thể về phạm vi hoạt động của BĐBP ở trong và
ngoài khu vực biên giới trong các trường hợp, cụ thể:
-
Hoạt động trong khu vực biên giới, cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý, địa bàn nội
địa để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
-
Hoạt động ngoài biên giới theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và quy định của pháp luật Việt Nam trong trường hợp
vì mục đích nhân đạo, hòa bình, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, kiểm soát xuất nhập
cảnh, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng, chống tội phạm, vi phạm
pháp luật.
2.3.5. Sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ (Điều 17)
Khi
thi hành nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng được sử dụng vũ khí, vật
liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật
liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Ngoài các trường hợp nổ súng quân dụng
theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ,
khi thi hành nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo
đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng được
nổ súng quân dụng vào tàu thuyền trên biển, sông biên giới, trừ tàu thuyền của
cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ
chức quốc tế, tàu thuyền có chở người hoặc có con tin, để dừng tàu thuyền,
thuộc một trong các trường hợp sau đây: đối tượng điều khiển tàu thuyền
đó tấn công hoặc đe dọa trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ; khi biết rõ tàu thuyền chở đối
tượng phạm tội, vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà
nước, ma túy, bảo vật quốc gia cố tình chạy trốn; khi tàu thuyền có đối tượng đã
thực hiện hành vi cướp biển, cướp có vũ trang theo quy định của điều ước quốc
tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, quy định của pháp
luật về hình sự cố tình chạy trốn. Trường hợp nổ súng, cán bộ, chiến sĩ Bộ
đội Biên phòng phải cảnh báo bằng hành động, mệnh lệnh, lời nói hoặc bắn chỉ
thiên trước khi nổ súng vào tàu thuyền; phải tuân theo mệnh lệnh của người có
thẩm quyền khi thực hiện nhiệm vụ có tổ chức.
2.3.6. Huy động người, tàu thuyền, phương
tiện, thiết bị kỹ thuật dân sự (Điều
18)
Trong trường hợp khẩn cấp để bắt giữ
người, tàu thuyền, phương tiện vi phạm pháp luật, tìm kiếm, cứu nạn, cấp cứu
người bị nạn, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường nghiêm trọng, cán bộ, chiến
sĩ Bộ đội Biên phòng được huy động người, tàu thuyền, phương tiện, thiết bị kỹ
thuật dân sự của cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam. Việc huy động quy định tại
khoản 1 Điều này phải phù hợp với khả năng thực tế của người, tàu thuyền,
phương tiện, thiết bị kỹ thuật dân sự được huy động và phải hoàn trả ngay sau
khi tình thế khẩn cấp chấm dứt. Trường hợp người, tài sản được huy động
làm nhiệm vụ mà bị thiệt hại thì được hưởng chế độ, chính sách, đền bù theo quy
định tại khoản 3 Điều 7 của Luật này; đơn vị có cán bộ, chiến sĩ huy động có
trách nhiệm giải quyết việc đền bù theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, công dân
Việt Nam có trách nhiệm thực hiện việc huy động của Bộ đội Biên phòng. Trong trường hợp khẩn cấp để
bắt giữ người, tàu thuyền, phương tiện vi phạm pháp luật, tìm kiếm, cứu nạn,
cấp cứu người bị nạn, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường nghiêm trọng, cán bộ,
chiến sĩ Bộ đội Biên phòng được đề nghị tổ chức, cá nhân nước ngoài đang hoạt
động ở khu vực biên giới hỗ trợ, giúp đỡ.
2.3.7. Hình thức quản lý, bảo vệ biên giới (Điều
19)
Quá
trình xây dựng Luật, có ý kiến đề nghị lấy tên Điều là “Cấp độ quản lý, bảo vệ biên giới” và rà soát, chỉnh lý Điều này
cho phù hợp với Luật Quốc phòng; cân nhắc thẩm quyền của Tư lệnh BĐBP, Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng khi chuyển từ hình thức thường xuyên lên tăng cường và quy
định rõ nội dung quản lý, bảo vệ biên giới thường xuyên, tăng cường. Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
cho rằng, các hình thức quản lý, bảo vệ biên giới đã được thực hiện ổn định, thống
nhất với quy định về sẵn sàng chiến đấu của Quân đội Nhân dân nên cần được luật
hóa để thực hiện thống nhất. Về quy định “Tư lệnh BĐBP quyết định chuyển hình thức quản lý, bảo vệ
biên giới quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này, báo cáo ngay Bộ Quốc phòng và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về quyết định của mình” tại điểm a khoản 2 là phù hợp với yêu cầu,
tình hình thực tiễn hiện nay. Quy định rõ thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong quản lý, bảo vệ
biên giới trong tình trạng khẩn cấp về
quốc phòng, thiết quân luật, giới nghiêm, tình trạng chiến tranh để bảo
đảm tính khả thi, tránh hạn chế quyền con người, quyền công dân và thống nhất với
quy định của pháp luật về quốc phòng.
Hình thức quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia
bao gồm: Quản lý, bảo vệ biên giới thường xuyên được áp dụng trong trường
hợp tình hình chủ quyền, lãnh thổ, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội ở khu vực biên giới ổn định. Quản lý, bảo vệ biên giới tăng cường được
áp dụng khi có sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan
trọng diễn ra ở khu vực biên giới, cửa khẩu, hai bên biên giới; tình hình an
ninh, trật tự, an toàn xã hội một số địa bàn ở khu vực biên giới diễn biến phức
tạp; địa bàn ngoại biên, khu vực biên giới đang tiến hành diễn tập quân sự, an
ninh, trật tự, xảy ra thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn hoặc đang
tiến hành hoạt động truy bắt tội phạm mà đối tượng phạm tội có thể vượt qua
biên giới; khi lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới của nước có chung đường biên
giới đề nghị. Quản
lý, bảo vệ biên giới trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, thiết quân luật,
giới nghiêm, tình trạng chiến tranh thực hiện theo quy định của pháp luật về
quốc phòng.
2.3.8. Biện pháp quản
lý, bảo vệ biên giới (Điều 20)
Bộ đội Biên phòng là một trong những cơ quan chuyên
trách bảo vệ an ninh quốc gia ở khu vực biên giới, nên khi thực hiện nhiệm vụ được áp dụng các biện
pháp cơ bản bảo vệ an ninh quốc gia. Vì vậy, kế thừa các quy định của Pháp lệnh BĐBP và thực tiễn công tác quản lý, bảo
vệ biên giới quốc gia hiện nay, Luật quy định có 07 biện pháp quản lý, bảo vệ
biên giới và xếp theo thứ tự cấp độ từ thấp đến cao, gồm: Vận động quần chúng,
pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ và vũ trang. Đồng
thời, xác định: Nội dung, điều kiện, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục và trách nhiệm áp dụng các biện pháp nêu trên do pháp luật quy định.
2.4. Bảo đảm biên phòng và chế độ, chính sách đối với
lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng (Chương IV)
Gồm 03 điều, quy định về bảo đảm nguồn lực (Điều 25),
nguồn lực tài chính (Điều 26) và chế độ, chính sách (Điều
27) trong Luật Biên phòng Việt Nam được áp dụng cho lực lượng thực thi nhiệm vụ
biên phòng và cán bộ, chiến sỹ BĐBP trên
cơ sở luật hóa các chế độ, chính sách hiện hành, không quy định thêm chế độ,
chính sách, đảm bảo phù hợp với Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Đồng thời, ưu tiên đối với cư dân ở
khu vực biên giới, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn để khuyến
khích, động viên cán bộ, chiến sỹ BĐBP và lực lượng thực thi nhiệm vụ biên
phòng, cụ thể:
“Điều 25. Bảo đảm nguồn nhân lực
1. Công dân Việt Nam là nguồn nhân lực xây dựng, quản
lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới. Nhà nước có kế hoạch tuyển chọn,
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng;
ưu tiên cư dân ở khu vực biên giới.
2.
Cán bộ, chiến sĩ BĐBP được đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ, tiếng
dân tộc và kiến thức cần thiết khác phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
3. Người dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới, người có tài năng được ưu tiên, khuyến khích phục vụ lâu dài trong BĐBP.”
“Điều 27. Chế độ, chính sách
đối với lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng
1. Lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng
ở khu vực biên giới được hưởng chế độ, chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật.
2. Cán bộ, chiến sĩ BĐBP được hưởng chính sách ưu đãi và chế độ đặc thù phù hợp với tính chất
công tác và địa bàn hoạt động do Chính
phủ quy định.”
2.5. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về biên phòng
(Chương V)
Gồm 07 điều, từ Điều 28 đến
Điều 34, quy định về trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao,
Bộ Công an và các Bộ, cơ quan ngang Bộ; Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận về biên phòng.
Nội dung Chương này được xây dựng trên cơ sở xác định cụ thể về trách nhiệm của 03 bộ (Quốc phòng, Ngoại
giao, Công an) với tư cách là cơ quan chỉ huy,
chỉ đạo lực lượng chuyên trách trong quản
lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân các cấp trong xây
dựng biên
giới quốc gia, cụ thể như sau:
2.5.1. Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng (Điều 29)
Để bảo đảm đúng thẩm quyền và trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ Quốc
phòng về thực thi nhiệm vụ biên phòng, đồng thời tránh chồng chéo chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức khác và bảo đảm tính khả thi. Luật quy định Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về biên
phòng và có
06 trách nhiệm sau đây:
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công an trong quản lý, bảo vệ
biên giới quốc gia.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương duy
trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới, cửa khẩu theo quy định của
pháp luật.
-
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, hướng dẫn Bộ, cơ quan ngang Bộ,
chính quyền địa phương thực hiện việc xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế
trận biên phòng toàn dân, thực hiện Ngày biên phòng toàn dân.
-
Hướng dẫn Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương nơi có biên giới quốc
gia thực hiện quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới;
- Xây
dựng Bộ đội Biên phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
- Phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương trong xây
dựng biên giới quốc gia, khu vực biên giới.
Đồng thời, Luật cũng giao Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các lực lượng thuộc quyền trong quản lý,
bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới tại Điều này.
2.5.2. Trách nhiệm của Bộ Ngoại giao (Điều
30)
Trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm chủ trì, phối hợp
với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, cơ quan có liên quan và chính quyền địa phương
thực hiện 05 nội dung:
-
Đề xuất chủ trương, chính sách và các biện pháp quản lý về biên giới quốc gia.
-
Thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đối ngoại biên phòng; hướng dẫn lực lượng nòng cốt, chuyên trách về nghiệp
vụ đối ngoại biên phòng.
-
Chỉ đạo, hướng dẫn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có biên giới quốc gia thực hiện
quản lý nhà nước về biên giới quốc gia.
-
Trình Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo hoặc hướng dẫn xử lý theo thẩm quyền vấn đề
phát sinh trong hoạt động của Bộ, ngành, địa phương liên quan đến quản lý, bảo
vệ biên giới quốc gia.
-
Bồi
dưỡng, hướng dẫn lực lượng nòng cốt,
chuyên trách thực thi nhiệm vụ
biên phòng giải quyết vụ việc liên quan đến biên giới và người nước
ngoài.
2.5.3. Trách nhiệm
của Bộ Công an (Điều 31)
- Chủ
trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, cơ quan có liên quan,
chính quyền địa phương nơi có biên giới quốc gia
thực hiện các nội dung sau đây:
+ Xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân, nền biên
phòng toàn dân ở
khu vực biên giới;
+ Quản lý nhà nước về xuất nhập cảnh, xây dựng, ban
hành theo thẩm quyền và trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách, pháp luật
về xuất cảnh, nhập cảnh.
- Phối
hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, cơ quan có liên quan, chính quyền địa
phương nơi có biên giới quốc gia duy trì an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thực
thi pháp luật và xử lý các tình huống quân sự, quốc phòng ở khu vực biên giới.
- Phối hợp với Bộ Quốc
phòng đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn lực lượng nòng cốt, chuyên trách nghiệp
vụ, pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, trao đổi thông tin
nghiệp vụ liên quan để thực thi nhiệm vụ biên phòng.
- Chỉ đạo Công an các cấp phối hợp với cơ
quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, chính quyền địa phương thực
thi nhiệm vụ biên phòng.
2.5.4. Trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 33)
Tiếp thu ý kiến tham gia của các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương cấp tỉnh nơi có biên giới và ý
kiến của các vị Đại biểu Quốc hội qua các kỳ họp, Luật Biên phòng Việt Nam xác
định cụ thể về trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp nơi
có biên giới và không có biên giới quốc gia trong thực thi nhiệm vụ biên phòng,
cụ thể:
- Đối với Hội đồng nhân dân các cấp nơi có biên giới
quốc gia, khoản 1 Điều 33 quy định:
“1. Trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng nhân
dân các cấp nơi có biên giới quốc gia có trách
nhiệm sau đây:
a) Quyết định chủ trương, biện pháp, huy động các
nguồn lực bảo đảm thực thi nhiệm vụ biên phòng phù hợp với Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, xây dựng nền
biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh;
b) Quyết định ngân sách bảo đảm thực thi nhiệm vụ biên phòng và
xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên trách ở địa phương; chính sách ưu tiên bảo đảm nhà ở, đất ở và các chính
sách khác cho cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng công tác lâu dài ở khu vực
biên giới;
c) Giám sát thực hiện pháp luật về biên phòng ở địa
phương.”.
- Đối với Ủy ban nhân dân các cấp nơi có biên giới
quốc gia, khoản 2 Điều 33 quy định:
“2. Trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Ủy ban nhân dân
các cấp nơi có biên giới quốc gia thực hiện quản lý nhà nước về biên phòng và có trách nhiệm sau đây:
a) Lập dự toán ngân sách trình Hội đồng nhân dân cùng cấp
bảo đảm thực thi nhiệm vụ biên phòng và xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên
trách ở địa phương;
b) Tập
trung và huy động các nguồn lực xây dựng khu vực biên giới vững mạnh về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại; xây dựng nền biên phòng toàn dân,
thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh ở địa phương; thực hiện Ngày biên
phòng toàn dân; thực hiện chính sách hậu phương quân đội;
c) Sắp
xếp, bố trí dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng; kết hợp phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, khoa học, công nghệ với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới;
d) Chủ
trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, cơ quan, tổ chức
liên quan tổ chức phong trào quần chúng nhân dân tham gia quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở biên giới;
đ)
Xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.”.
- Đối với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp
nơi không có biên giới quốc gia, khoản 3 Điều 33 quy định:
“3. Trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các
cấp nơi không có biên giới quốc gia có
trách nhiệm sau đây:
a) Hội
đồng nhân dân các cấp quyết định chủ
trương, biện pháp, ngân sách, giám sát, huy động các nguồn lực bảo đảm thực
thi nhiệm vụ biên phòng;
b) Ủy ban nhân dân các cấp tham gia, phối
hợp với cơ quan, tổ chức để thực thi nhiệm vụ biên phòng, xây dựng nền biên
phòng toàn dân, thế trận biên
phòng toàn dân vững mạnh; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về biên
phòng; tham gia thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
khoa học, công nghệ, đối ngoại ở biên giới; thực hiện Ngày biên phòng toàn dân; thực hiện chính
sách hậu phương quân đội.”.
2.6. Điều khoản thi hành (Chương VI)
Gồm 02 điều (Điều 35 và
Điều 36), Sửa đổi, bổ sung Điều 21 của Luật biên
giới quốc gia và xác định Luật Biên phòng Việt Nam có hiệu lực từ ngày
01/01/2022, Pháp lệnh BĐBP hết hiệu lực khi Luật Biên phòng Việt Nam có hiệu
lực.
Điều 21 của Luật biên giới quốc gia được sửa đổi như sau:
“Điều 21
1. Trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, lý do đặc
biệt khác hoặc theo đề nghị, thông báo của nước hữu quan, người, phương tiện,
hàng hóa có thể bị hạn chế hoặc tạm dừng qua lại biên giới quốc gia, kể cả việc
đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam.
2. Việc hạn chế hoặc tạm dừng hoạt động ở vành đai
biên giới, khu vực biên giới, qua lại biên giới tại cửa khẩu, lối mở biên giới
đất liền thực hiện theo quy định của Luật Biên phòng Việt Nam.
3. Thẩm quyền quyết định việc hạn chế hoặc tạm dừng
quy định tại khoản 1 Điều này do Chính phủ quy định, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này. Quyết định về việc hạn chế hoặc tạm dừng phải được thông báo
cho chính quyền địa phương và nhà chức trách của nước hữu quan biết.”.
[1] Tờ trình số 239/TTr-CP
ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ
[2] Khoản
1 Điều 28 Luật BGQG quy định: “Nhà
nước xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh để
quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia”.